Tên di sản : Nhà thờ họ Nguyễn Thuận

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 2527/QĐ-UBND

Giới thiệu

Nhà thờ họ Nguyễn Thận nằm ở trung tâm một làng Việt cổ - làng Đô Mỹ, xã Hà Tân, huyện Hà Trung – vùng đất quý hương, trong một không gian cao ráo, thoáng đãng ngoảnh mặt về hướng đông nhìn ra đường liên thôn và cánh đồng, con kênh của làng, chếch về phía bắc nơi có dòng Hoạt giang hiền hoà và thơ mộng tạo cho làng quê những cánh đồng tốt tươi hoa trái. Hoà vào cảnh sắc thiên nhiên ấy là những di tích văn hoá cổ kính của làng được gìn giữ từ nhiều đời nay như: đình và chùa làng Đô...nằm ẩn mình giữa những ngôi mhà truyền thống dân gian đã tạo thêm cho vùng đất này một không gian thiêng, êm đềm và thanh bình mà những người vãng cảnh có cảm giác nơi đây như là hình ảnh thân thuộc của một làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ.

Đến tham quan khu di tích theo thứ tự từ ngoài ngõ vào có các công trình: Cổng - Sân - Nhà thờ và kiến trúc phụ.

Cổng: Ngõ của nhà thờ được mở ra phía trước, để ra vào khuôn viên phải qua một chiếc cổng. Mặt chính quay hướng nam, nằm sát đường liên thôn, được xây bằng các chất liệu gạch, vôi vữa và hai cánh cổng bằng sắt, có chiều cao 2,5m; chiều rộng 1,9m. Phía trước có vườn để trồng cây ăn quả, cây cảnh.

Sân nhà thờ: có chiều dài 7,5m, chiều rộng 5,3m, được lát bằng gạch bát (25 x 25cm), lát theo lối chữ công (I).

Kiến trúc phụ:

Quan sát xung quanh ngôi nhà thờ chúng ta sẽ thấy khu kiến trúc phụ như nhà ngang, bếp và giếng nước để phục vụ cho sinh hoạt của người trông coi nhà thờ, đồng thời phục vụ cho con cháu về làm lễ tế tổ mỗi khi giỗ, tết. Nhà ngang và bếp có chiều dài 8,6m, chiều rộng 5,3m, nhà ngang được xây dựng thành 3 gian với 4 vì kèo truyền thống bằng chất liệu gỗ, tường sĩ hết đốc, xây bằng gạch và vôi vữa, mái lợp ngói mũi. Giếng nước được xây bằng gạch đá và vôi vữa, đường kính miệng của giếng 1m, thành giếng cao 0,75m.

Nhà thờ:

Về kết cấu kiến trúc: Nhà thờ được cấu tạo bởi 6 vì kèo gỗ tạo thành 5 gian, trong đó có hai gian buồng và 3 gian nhà ngoài. Mỗi vì kèo cách nhau 75cm, 2 vì cuối cách tường đốc 50cm để tránh bị thấm tường làm hỏng. Ngôi nhà có chiều dài 15,3m, chiều rộng lòng nhà 4,8m, hiên 0,8m, từ nền nhà đến Thượng lương cao 4,32m.

Với kiến trúc 5 hàng chân cột: 2 hàng cột cái ở giữa (chu vi cột cái là 73cm), hai vì thuận trốn cột cái phía trước nhằm mục đích tăng diện tích sử dụng; và 2 hàng cột quân, chu vi cột quân là 70cm; phía ngoài là cột hiên; Liên kết giữa cột cái với cột cái là quá giang; liên kết giữa cột cái và cột quân là xà, các điểm nối các cột con với nhau có chức năng liên kết như các xà, hoàn chỉnh một bộ khung gỗ hình hộp. Từ cột con đến cột hiên ở cả mái trước và mái sau được nối với nhau bằng vì kèo theo lối “Tiền kẻ hậu bẩy”, làm nhiệm vụ đỡ tàu mái, ở đây bẩy ăn mộng vào đầu cột con tăng cường cho phần chắc chắn ở điểm nối giữa quá giang và đầu cột con (trên kẻ bẩy vẫn còn hằn in rõ tài hoa của nghệ nhân qua bức chạm trổ theo đề tài tứ quý (hoa cúc dây) cách điệu rất tinh xảo mang đậm phong cách thời Nguyễn).

Nối từ cột cái đến cột cái theo chiều dọc là xà thượng và xà hạ, giữa hai xà là bức ván nong (ván gió) được chạm trổ hoa văn dây leo theo đề tài tứ quý cách điệu rất tinh xảo.

Ngăn cách giữa nhà ngoài với buồng là bức vì thuận, bức vì thuận được cấu trúc từ cột cái đến cột cái (từ vì kèo trở lên) được làm bằng gỗ (từ vì kèo trở xuống mới được thay bằng Fomica), từ cột cái đến tường hậu lại được xây bằng tường gạch. Bên trên cửa vào buồng là bức chấn chương được chạm khắc tinh xảo với các đường nét hoa lá mềm mại, trông giống như hai con rồng đang uốn lượn, ở giữa khuông gỗ là hình đồng tiền trinh, có trang trí hoa văn dây leo xung quanh bốn góc.

Với ba gian ngoài có ba cửa ra vào, tạo cho ngôi nhà sáng, thoáng mát thuận tiện mỗi khi con cháu trong họ về cúng tế. Cửa được làm theo kiểu bức bàn bốn cánh. Cửa có chiều cao 1,7m; hai gian bên, mỗi cửa rộng 1,77m, mỗi cánh rộng 43,3cm; cửa giữa rộng 1,82m, mỗi cánh rộng 45cm; bậc cửa cao 39cm. Bên trên cửa chính nối liền với mái là bức xuân hoa bằng gỗ, được tạo thành bởi các khung gỗ hình chữ nhật, hình vuông và hai hàng con tiện, vừa để thông gió (mỗi khi đóng cửa), lại vừa thoáng mắt ưa nhìn.

Cửa nách hiên được làm kiểu ba nô, phía trên chấn song. Bên trên cửa mách hiên là vì kèo con so chồng rường. Trên đó được chạm khắc hoa văn cách điệu hình hoa cúc mãn khai. Ở giữa là ô vuông bằng ván chạm khắc trang trí cho phần mê theo cụm đề tài “Tứ quý”.

Phần mái được kết cấu bằng gỗ kết hợp với luồng, trên mái được lợp bằng ngói mũi.

Bài trí đồ thờ tại di tích: Tại gian giữa nhà thờ, nơi đặt bàn thờ tổ dòng họ Nguyễn Thận, trong đó có nhân vật Nguyễn Xuân. Đó là một hương án, phía trên được bài trí thành các lớp:

Phía trong cùng là một bài vị cổ, trong đó ghi tên ông tổ dòng họ.

Tiếp theo là ba bát hương sứ cổ, trong đó bát hương ở giữa là bát hương cộng đồng, bát hương sứ bên phải (nhìn từ ngoài vào) là bát hương thờ.

Tướng quân Nguyễn Xuân, bát hương sứ cổ phía trái là bát hương thờ Nguyễn Thận Triết (cùng vai với Nguyễn Xuân).

Ngoài cùng là hai bát hương sứ mới thờ ông trưởng các chi. Ngoài ra còn mâm bồng bằng gỗ và chân đèn thờ bằng đồng.

Nhìn chung: Nhà thờ họ Nguyễn Thận hiện nay là ngôi nhà vẫn còn giữ được nếp nhà gỗ dân gian truyền thống, là ngôi nhà của gia đình trung lưu, khá giả. Toàn bộ khu nhà thờ được tạo nên từ một khối lượng gỗ và vôi vữa tương đối lớn, được xây dựng theo kiểu dáng kiến trúc gỗ truyền thống của người Việt.

Trên những vì kèo, chấn chương, bức xuân hoa, kẻ bẩy, con so...đã thể hiện rõ tài hoa một thuở của người xưa qua những bức chạm trổ tinh xảo mang đậm phong cách dân gian thời Nguyễn. Cụm đề tài tứ quý được chạm khắc khéo léo đến từng chi tiết nhỏ nhất. Chính vì thế, dẫu thời gian trải qua hơn 1 thế kỷ nhuốm màu mưa nắng cũng không làm phai mờ dấu vết tinh hoa của nghệ nhân xưa.

Tuy các đồ thờ cũ như bát bửu, ngựa thờ, sắc phong, cờ, lộng,...đã bị đốt trong cải cách ruộng đất, song những gì còn lại ở nhà thờ cho đến hôm nay cũng là những bằng chứng sống động về quá trình tụ cư cũng như những đóng góp của những thế hệ dòng họ Nguyễn Thận trong tiến trình lịch sử của vùng đất Hà Tân nói riêng và dân tộc nói chung.

Các hiện vật trong di tích:

Những hiện vật cổ bao gồm:

Ba cuốn Gia phả bằng chữ Hán, được soạn dưới triều vua Bảo Thái thứ hai (1721); Minh Mệnh thứ 18 (1837) và Tự Đức thứ 32 (1879);

Hai hộp đựng sắc phong bằng gỗ:

Một bài vị gỗ

Ba bát hương sứ, trong đó có một bát có rồng chầu mặt nguyệt

Ba hương gỗ

Hai con voi đá

Một số hiện vật mới:

03 hương sứ, 01 lư hương đồng, 02 đài nước gỗ, 02 cây nến đồng, 04 bình lộc bình sứ.

Hình ảnh Nhà thờ họ Nguyễn Thuận

Xem tất cả
Nhà thờ họ Nguyễn Thuận

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật